Qua đó giúp các bạn cảm nhận được tình So sánh hình ảnh bát cháo hành trong Chí Phèo và cháo cám trong Vợ nhặt gồm 2 dàn ý chi tiết kèm theo 3 bài văn mẫu. 2 Dàn ý & 9 bài văn mẫu số 5 lớp 11 đề 2. Cảm nhận về hình tượng nhân vật Chí Phèo là một trong những chủ đề hay nằm trong chương trình Ngữ văn 11 bài viết số 5: Nghị luận văn học. I. Dàn ý Cảm nhận về câu nói của bà cô Thị Nở trong truyện Chí Phèo (Chuẩn) 1. Mở bài. – Chí Phèo của Nam Cao là một kiệt tác trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại, thể hiện sâu sắc những giá trị hiện thực và nhân đạo, đầy mới mẻ. – Bi kịch lớn nhất của Chí Cảm nhận về tình yêu trong tác phẩm Chí Phèo của nhà văn Nam Cao để làm sáng tỏ lên ẩn sâu trong cuộc sống cơ cực của những con người sống trong một xã hội phong kiến thối nát vẫn là tình người nhen nhóm, vẫn là sự cảm thông, đồng cảm và tình yêu bé mọn của những kẻ thấp cổ bé họng sống dưới Thị Nở còn là người có khát khao hạnh phúc gia đình– Thị Nở thích cuộc sống gia đình có vợ có chồng– Suy nghĩ rất nghiêm túc về mối quan hệ với Chí– Đối với Chí, cảm giác “ngượng ngượng mà thinh thích”– Bởi khát khao và suy nghĩ nghiêm túc về hạnh phúc gia . Cảm nhận về tình yêu trong tác phẩm Chí Phèo của nhà văn Nam Cao để làm sáng tỏ lên ẩn sâu trong cuộc sống cơ cực của những con người sống trong một xã hội phong kiến thối nát vẫn là tình người nhen nhóm, vẫn là sự cảm thông, đồng cảm và tình yêu bé mọn của những kẻ thấp cổ bé họng sống dưới đáy xã hội như Chí Phèo và Thị NởĐề bàiCảm nhận về tình yêu của Chí Phèo và Thị Nở trong tác phẩm cùng tên của Nam CaoDàn ý cảm nhận về tình yêu của Chí Phèo và Thị Nở1. Mở bàiGiới thiệu vấn đề Trong “Chí Phèo” nhà văn Nam Cao không chỉ lên án xã hội phong kiến đen tối, vô nhân tính, bênh vực cho cùng nỗi thống khổ đến cùng cực của người nông dân nghèo mà ngòi bút nhân đạo của nhà văn Nam Cao còn thể hiện thái độ đồng cảm, trân trọng tình yêu giữa những con người khốn khổ dưới đáy xã hội là Chí Phèo và Thị Thân bài- Chí Phèo và Thị Nở đều là những con người khốn khổ dưới đáy xã hội, họ là nạn nhân đáng thương của xã hội phong kiến thối nát, phải chịu những định kiến khắc nhận làm tay sai cho Bá Kiến, Chí Phèo từ một anh canh điền hiền lành, lương thiện đã trở thành con quỷ dữ làng Vũ ĐạiThị Nở là người đàn bà xấu xí, nhà lại có mả hủi nên bị mọi người trong làng xa lánh, sợ hãi, họ nhìn Thị Nở như một cái gì đó rất tởm.–> Hai con người khốn khổ bị cả xã hội chối bỏ ấy tuy mang những khiếm khuyết lớn về mặt ngoại hình, nhân tính nhưng lại là mảnh ghép hoàn hảo cho Trong một lần uống rượu say, gặp Thị Nở ngủ quên tại vườn chuối, Chí Phèo và Thị Nở đã có một đêm sống như vợ Buổi sáng hôm sau, khi tỉnh cơn rượu, Chí Phèo đã bị cảm, vì thương Chí có một mình, Thị Nở đã nấu cháo hành mang sang cho Chí giải Hành động ngỡ như hết sức bình thường này lại có ý nghĩa vô cùng quan trọngThể hiện tình thương của Thị Nở với Chí PhèoĐánh thức con người lương thiện bên trong Tình yêu của Thị Nở và Chí Phèo diễn ra thật tự nhiên, họ nhìn thấy ở nhau những giá trị tốt đẹp mà định kiến của người dân làng Vũ Đại không thể trông Chí Phèo và Thị Nở đã có một khoảng thời gian ngắn chung sống hạnh phúc với nhau. Có thể thấy cả Chí và Thị đều trân trọng đối với mối tình này, từ khi quen Thị, Chí uống ít rượu hẳn, Thị hay cười Trước sự phản đối của bà cô Thị Nở, thái độ giận dữ của Thị Nở, Chí Phèo đã quyết định giết chết Bá Kiến, dùng dao tự tử để chấm dứt bi kịch không lối thoát của cuộc đời Kết bài cảm nhận tình yêu của Chí Phèo và Thị NởNhìn vào mối tình của Thị Nở, Chí Phèo người đọc cảm thấy được cái gì đó rất đáng yêu nhưng cũng không kém phần cảm động. Hai người họ bị cả xã hội quay lưng nhưng cũng chính họ lại là những con người lương thiện, khát khao yêu thương 3 bài văn hay cảm nhận tình yêu của Chí Phèo và Thị NởBài văn mẫu 1Tình yêu bé mọn của những kẻ sống ở dưới đáy của xã hội phong kiến thối nátTác phẩm Chí Phèo của Nam Cao xưa và nay vẫn được xem là một truyện ngắn tiêu biểu, xuất sắc của văn học sáng tác theo khuynh hướng hiện thực phê phán. Tác phẩm được chú ý khai thác ở các khía cạnh tố cáo xã hội phi nhân tính, sự áp bức của giai cấp thống trị, số phận con người bị tha hoá... nhiều hơn là nhìn từ góc độ tình bộ nội dung, kết cấu tác phẩm gắn liền với cuộc đời của nhân vật chính là Chí Phèo, có một chi tiết đáng lưu ý là Các biến cố làm nên những đổi thay to lớn, những bước ngoặt trong cuộc đời Chí Phèo cũng như trong kết cấu tác phẩm lại đến từ hình bóng những người đàn bà. Tuy nhiên có bóng dáng đẩy Chí Phèo vào chốn tăm tối nhưng cũng có gương mặt tuy xấu xí nhưng lại đưa Chí Phèo ra nơi ánh sáng của cõi minh đời Chí Phèo đột nhiên chuyển hướng do việc tiếp xúc miễn cưỡng với bà Ba Bá Kiến, một người "đàn bà phốp pháp, má hây hây", để từ một anh nông dân hiền lành chất phác trở thành một tên tù, một tên lưu manh mất hết nhân tính, mất luôn cả ý thức về mình lẫn ý thức làm người. Tuy nhiên, lần gặp gỡ với Thị Nở lại mang đến một hệ quả ngược, nó làm đảo lộn tất cả. Chính cuộc gặp gỡ với Thị Nở chứ không phải một biến cố xã hội nào đã làm thay đổi toàn bộ cuộc đời Chí Phèo và quyết định số phận của cả Chí Phèo lẫn Bá tình cảm tưởng chừng rất vu vơ giữa Chí Phèo và Thị Nở ấy đã tác động, chi phối một cách sâu sắc đến quan hệ giữa Chí Phèo và Bá Kiến. Từ đó có thể thấy không phải ngẫu nhiên mà Nam Cao đã xây dựng nhân vật Chí Phèo bắt đầu từ buổi tối trước khi gặp Thị Nở, cái buổi tối mà hắn "vừa đi vừa chửi", để rồi từ đó mối quan hệ dây mơ rễ má với Bá Kiến, những khúc, đoạn trong cuộc đời Chí Phèo như một cuốn phim quay chậm được tái hiện. Tất cả những chi tiết này có tính chất như một đường truyền, một lời đề dẫn hay như những hoạ tiết có tính chất phông nền để làm nổi bật tác động của tình yêu, tình người đến cuộc đời Chí qua nhân vật Thị trong những đặc trưng phong cách của Nam Cao là sử dụng những yếu tố trái khoáy, ngược nhau để mô tả hiện thực. Tên của tác phẩm cũng thường hàm chứa một điều trái khoáy như Lang rận, Chí Phèo, Tình già... Bản thân sự tồn tại nhếch nhác của nhân vật Lang rận cùng với vẻ bề ngoài bẩn thỉu là một sự trái ngược, mâu thuẫn với nghề nghiệp, vị thế xã hội mà nhân vật mang vác. Tất cả những đối nghịch đó được thâu tóm trong một cái tên Lang rận, và được khắc sâu hơn trong sự tương phản giữa vẻ bên ngoài nhếch nhác, thấp kém với đời sống tâm hồn cao đẹp. Hay trong truyện Nửa đêm, người cha có tên là Thiên Lôi nhưng lại đặt tên con là Đức - như hai mặt của một quá trình biện chứng nhân quả... những chi tiết đó có thể hiểu tại sao Nam Cao lại lạ hoá câu chuyện tình Chí Phèo - Thị Nở như vậy. Không lãng mạn thơ mộng như các câu chuyện tình của Tự Lực Văn Đoàn, buổi tối gặp gỡ giữa Chí Phèo và Thị Nở bắt đầu bằng hình ảnh Chí Phèo "vừa đi vừa chửi... chửi cái đứa đã đẻ ra Chí Phèo", cuộc đời hắn chìm trong những cơn say. Chưa bao giờ hắn tỉnh táo để "nhớ rằng hắn có ở đời". Tức trong hắn chỉ tồn tại không phải ý thức mà là một khối u u mê mê, tối tăm đặc quánh, vô cảm, vô thức. Ngay cả sự hiện hữu của bản thân, hắn cũng không nhận thức được, hắn chỉ kinh ngạc rồi cười ngặt nghẽo, cười rũ rượi khi phát hiện ra mình dưới dạng một cái bóng trên đường trăng nhễ nhại, méo mó, xệch xạc. Chính hình ảnh này hướng đến sự ẩn dụ về một dạng tồn tại bất toàn của con người trong xã hội cũ. Con người không được sống thực là chính mình mà chỉ là những cái bóng, nhưng cũng không được là cái bóng của chính mình mà là bóng của giai cấp thống trị nên thành "cái vật xệch xạc, một cái gì đen và méo mó trên đường trăng nhễ nhại". Với cái bóng đó, với ý thức hiện hữu về sự méo mó của chính mình, Chí Phèo đến với Thị Nở. Đó là cuộc gặp gỡ tất yếu là hệ quả từ hai cuộc đời trống rỗng và bất toàn của hai con Nở trước khi gặp Chí Phèo vốn chỉ là một thực thể không có đường nét cá tính gì đặc biệt mà còn khùng khùng dại dại, còn dung nhan là những đường nét tự nhiên, thô mộc đến mức dị hợm Trên một khuôn mặt ngắn ngủn, có cái mũi "vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành" và một đôi môi "cũng cố to cho không thua cái mũi" hơn nữa, lại dày và có "màu thịt trâu xám ngoách". Toàn bộ "nhan sắc" của Thị Nở được Nam Cao tóm lại trong một nhận xét là "xấu đến ma chê quỷ hờn". Từ hai cuộc đời, hai thân phận khiếm khuyết, hai trí tuệ mông muội tăm tối của Chí Phèo - Thị Nở, Nam Cao đã để cho họ kết hợp lại như một sự liên kết hoàn hảo để tạo ra một con người mới thống nhất trong sự bừng nở trở lại của một trí tuệ minh triết. Đó là Chí Phèo sau khi gặp Thị Nam Cao, tình yêu không đi liền với sự lý tưởng hoá đối tượng, với sự hâm mộ sùng bái người yêu mà bắt đầu chỉ thuần tuý là bản năng. Ánh trăng trong mắt của Chí Phèo đêm gặp Thị Nở mang đầy màu sắc nhục thể, cứ "xanh rời rợi như là ướt nước". Cây dâu tây gần bờ sông thì "thân mềm oặt", những tàu chuối trong vườn nhà hắn thì "nằm ngửa, ưỡn cong cong lên" thỉnh thoảng lại "giẫy lên đành đạch như là hứng tình". Cái bóng - dấu ấn về sự hiện hữu méo mó của bản thân Chí Phèo cũng được phát hiện trong lúc này. Hành động chiếm đoạt Thị Nở của Chí Phèo lúc đầu chỉ thuần tuý là bản năng nhưng chính trong cõi âm u của bản năng ấy một ánh loé diệu kỳ đã bùng dậy hé mở cho ta nhìn thấy bản thể tốt đẹp của con Cao đã vượt trước những nhà văn của thời đại ông ở chỗ không dừng lại ở những tình yêu lý tưởng thuần tuý tinh thần như của Loan và Dũng trong Đoạn Tuyệt Khái Hưng, Lan và Ngọc trong Hồn bướm mơ tiên Khái Hưng, Thanh và Ngọc trong Dòng sông Thanh Thuỷ Nhất Linh, mà ông đã hợp nhất tình yêu trong sự hoà hợp tinh thần và thể xác. Đó là những chi tiết làm căn cứ để khẳng định đây là tình yêu chứ không thuần tuý là bản năng khi Nam Cao tiếp tục miêu tả thêm lúc Chí Phèo đau bụng và ói mửa, được Thị Nở dìu về lều... Hành động ban đầu là bản năng đã làm sống dậy tình yêu, sống dậy phần nhân tính tưởng không có hay đã chết trong con người của cả Chí Phèo lẫn Thị Nở. Ở đây có sự tái sinh, phục sinh của tinh thần nhờ tình yêu và sự gắn kết hai thân xác. Nó đã cải hóa, tái sinh Chí Phèo, tình yêu cho Chí Phèo và Thị Nở ý thức về chính đây, họ chỉ là hai khối mông muội, Chí Phèo thì hung bạo và triền miên trong vô thức và những cơn say vô tận "Ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say, đập đầu rạch mặt chửi bới dọa nạt trong lúc say, uống rượu trong lúc say để rồi say nữa, say vô tận". Vậy nhưng trong tình cảm với Thị Nở, Chí Phèo đã tìm thấy chính mình, khám phá ra chính mình, hơn thế nữa khám phá ra sự sống. Con người ý thức, con người cảm xúc của Chí Phèo sống dậy. Lần đầu tiên hắn tỉnh hẳn rượu, đó là cái tỉnh của ý sao Chí Phèo "càng uống lại càng tỉnh ra?". Bởi vì tình yêu của hắn và Thị Nở đã làm thay đổi tâm điểm cuộc sống của hắn. Tâm điểm đó đã trượt từ cõi u minh của vô thức những ngày trước đây về với cõi thực tại, bắt Chí Phèo thừa nhận một thực tại cuộc sống đang tồn tại dù có hay không có hắn. Nó định vị tâm điểm cuộc sống của Chí Phèo từ những cơn say nghiêng ngả vào một cuộc sống bình thường. Chính vì vậy mà hắn tỉnh, hắn đã nhìn thấy chính bản thân mình. Thấy "bâng khuâng" rồi "lòng mơ hồ buồn"rồi "nghĩ vẩn vơ"... Thị Nở cũng thế, lần đầu tiên Thị lắng nghe cảm xúc của tâm hồn mình để "trằn trọc" "nghĩ ngợi" "tưởng tượng bâng quơ" . giới hạn của cuộc đời Chí Phèo như đã được phá bỏ, nó mở rộng, liên thông với cuộc đời bên ngoài. Chính tình yêu đã mở thông lối về với cuộc đời của Chí Phèo, hắn cảm nhận được cuộc sống xung quanh"Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có. Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy... Chao ôi là buồn !".Tình yêu cũng gia tăng thêm kích thước cho cuộc đời hắn. Trước đây Chí Phèo vô cảm, vô tâm, không có ý thức về chính bản thân mình nhưng nay hắn có cả quá khứ, hiện tại và tương lai. Đó là quá khứ với những kỷ niệm yêu thương đầm ấm, là mùi hương từ bát cháo hành và những săn sóc ân cần của Thị Nở, những kỷ niệm xa xưa cũng hiện về. Hắn từng mơ tới một viễn cảnh bình yên với chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải... hắn còn sợ già, sợ cô độc và muốn làm hòa với mọi người, muốn làm người lương thiện. Sự chuyển vị này là hệ quả tất yếu do tình yêu đem lại, nó khắc họa một cách sâu sắc bản thể bất toàn và cô độc của Chí Phèo lẫn Thị Nở trước khi yêu và được yêu. Chính tình yêu đã bù đắp khiếm khuyết trong tâm hồn, tái sinh một cuộc đời và làm giàu có đời sống nội tâm của nhân vật này rất vì thức tỉnh, vì đã được khai hóa và giàu có nhờ tình yêu nên khi bị Thị Nở từ chối "và ngoay ngoáy cái mông đít ra về", Chí Phèo mới cảm thấy tuyệt vọng và đau khổ. Sức mạnh của tình yêu đã đưa hai nhân vật này đến một tâm điểm tuyệt đối của cuộc sống, trong khi thực tại lại không như vậy, nó vẫn tồn tại những định kiến xã hội không dễ buông tha cho con người nên thiên đường tình yêu, khát vọng làm người của Chí rơi tõm vào hiện thực trần trụi và vỡ toang, buộc Chí Phèo phải đối diện với hiện thực với nỗi đau khổ, tuyệt vọng để vùng lên cầm dao giết chết Bá Kiến. Lời chì chiết của bà cô Thị Nở như là một chi tiết "giải thiêng" tình yêu của Chí Phèo. Nó thực tế, trần trụi đến tàn nhẫn. Đó là cái giá mà Chí Phèo và Thị Nở phải trả để đến với nhau, những thành trì xung quanh tình yêu ấy không dễ gì phá nên Chí Phèo tự kết liễu đời mình là một cách chọn lựa thích hợp nhằm chối bỏ sự thỏa hiệp, quay lại cuộc sống trước những tác phẩm về tình yêu của Tự Lực Văn Đoàn của chủ nghĩa lãng mạn thì Chí Phèo của Nam Cao là một khám phá. Bởi Nam Cao vẫn viết về tình yêu nhưng không phải về bản thân tình yêu Chí Phèo - Thị Nở, mà sâu xa hơn, Nam Cao muốn hướng người đọc đến những vấn đề ngoài tình yêu. Đó là vấn đề về văn hóa, về con người và xã hội, về bản năng và vô thức, những ý niệm về thân phận con người, sự tự do thoát khỏi những buộc ràng của định kiến xã hội, khao khát làm vì vậy tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao không mang dáng dấp của truyện tình theo nghĩa thông thường ta vẫn hiểu, cũng không chuyển tải nội dung tình yêu theo cách thông thường mà theo một cách rất trái khoáy, rất nghịch dị mang dấu ấn riêng của Nam Cao. Nó làm cho hiện thực cuộc sống không còn bị gò ép trong cái khuôn khổ thông thường, quen thuộc trong cái nhìn của mọi người mà hiện ra một cách đột ngột bất ngờ tạo sự ngạc nhiên trong cảm thể bạn quan tâm Diễn biến tâm trạng của Chí Phèo sau khi gặp Thị NởBài văn mẫu 2Bài văn cảm nhận tình yêu của Chí Phèo và Thị Nở hay nhấtChí Phèo là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của văn học hiện thực Việt Nam trước cách mạng tháng Tám. Thông qua tác phẩm, nhà văn Nam Cao không chỉ lên án xã hội phong kiến đen tối, vô nhân tính, bênh vực cho cùng nỗi thống khổ đến cùng cực của người nông dân nghèo mà ngòi bút nhân đạo của nhà văn Nam Cao còn thể hiện thái độ đồng cảm, trân trọng tình yêu giữa những con người khốn khổ dưới đáy xã hội là Chí Phèo và Thị Phèo và Thị Nở đều là những con người khốn khổ dưới đáy xã hội, họ là nạn nhân đáng thương của xã hội phong kiến thối nát, phải chịu những định kiến khắc nghiệt. Từ khi chấp nhận làm tay sai cho Bá Kiến, Chí Phèo từ một anh canh điền hiền lành, lương thiện đã trở thành con quỷ dữ làng Vũ Đại, mọi người đều khinh ghét, sợ hãi, thậm chí chối bỏ quyền làm người của Chí Phèo. Khi Chí Phèo cất tiếng chửi, không ai trong làng Vũ Đại đáp lại hắn một phần vì sợ phiền phức, mặt khác thể hiện thái độ bài xích, phủ nhận sự tồn tại của Chí Phèo. Ngay cả khi Chí Phèo chết đi người dân làng Vũ Đại cũng không có một chút đồng cảm bởi “ai chứ thằng Chí Phèo chết” thì vẫn không có ảnh hưởng đến cuộc sống của họThị Nở là người đàn bà xấu xí, nhà lại có mả hủi nên bị mọi người trong làng xa lánh, sợ hãi, họ nhìn Thị Nở như một cái gì đó rất tởm. Hai con người khốn khổ bị cả xã hội chối bỏ ấy tuy mang những khiếm khuyết lớn về mặt ngoại hình, nhân tính nhưng lại là mảnh ghép hoàn hảo cho Phèo vốn không phải nhan đề đầu tiên được đặt, khi được xuất bản, truyện ngắn này của Nam Cao được đặt với nhan đề “Đôi lứa xứng đôi”. Nhan đề này đã thể hiện được một phần nội dung đặc sắc của tác phẩm, đó là tình của Chí Phèo và Thị Nở. Tuy nhiên, khi xuất bản lại Nam Cao đã lựa chọn nhan đề Chí Phèo để thể hiện rõ hơn tư tưởng chủ đề của tác một lần uống rượu say, gặp Thị Nở ngủ quên tại vườn chuối, Chí Phèo và Thị Nở đã có một đêm sống như vợ chồng, đây cũng là lần gặp gỡ đầu tiên, tiền đề cho mối tình Chí Phèo, Thị Nở chớm nở. Buổi sáng hôm sau, khi tỉnh cơn rượu, Chí Phèo đã bị cảm, vì thương Chí có một mình, Thị Nở đã nấu cháo hành mang sang cho Chí giải rượu. Hành động ngỡ như hết sức bình thường này lại có ý nghĩa vô cùng quan cháo hành không chỉ thể hiện tình thương của Thị Nở với Chí Phèo – con quỷ dữ bị cả làng xa lánh mà hơi ấm của bát cháo còn có sức mạnh đánh thức con người lương thiện bên trong Chí. Tình yêu của Thị Nở và Chí Phèo diễn ra thật tự nhiên, họ nhìn thấy ở nhau những giá trị tốt đẹp mà định kiến của người dân làng Vũ Đại không thể trông thấy. Chí thấy ở Thị Nở – người đàn bà xấu xí bị cả làng xa lánh vẻ đáng yêu rất duyên, Thị Nở lại thấy ở Chí vẻ hiền lành ngỡ như không bao giờ có trong con quỷ dữ của làng Vũ Đại Phèo và Thị Nở đến với nhau một cách tự nhiên, chân thành như thế, họ tuy không hoàn hảo nhưng lại là một nửa hoàn hảo dành cho nhau. Nếu nói Thị Nở là người đã đánh thức phần nhân tính của Chí Phèo, mang đến những khát khao hạnh phúc, khát khao sống lương thiện của một thời trai trẻ thì Chí Phèo cũng chính là người thật lòng yêu thương, trân trọng Thị như một người đàn bà bình thường, thứ mà ngỡ như rất xa xỉ với Phèo và Thị Nở đã có một khoảng thời gian ngắn chung sống hạnh phúc với nhau. Có thể thấy cả Chí và Thị đều trân trọng đối với mối tình này, từ khi quen Thị, Chí uống ít rượu hẳn, Thị hay cười hơn mà theo như đánh giá của Chí, nụ cười đó rất duyên. Thị Nở đã mang chuyện của mình và Chí hỏi bà cô nhưng bị phản đối. Vốn tính dở hơi, lại uất ức vì những lời mắng mỏ thậm tệ của bà cô, Thị Nở đã mang toàn bộ những lời mắng chửi đấy để “ném” vào mặt Chí. Thái độ của bà cô Thị Nở cũng chính là những định kiến ngặt nghèo của xã hội, Chí đã nhận ra rằng mình không thể quay trở về với con đường lương thiện được nữa. Chí Phèo đã quyết định giết chết Bá Kiến, dùng dao tự tử để chấm dứt bi kịch không lối thoát của cuộc đời ảnh Thị Nở đặt tay vào bụng khi nhìn thấy Chí Phèo chết cho người đọc một liên tưởng, phải chăng sau những ngày sống cùng Chí, một đứa trẻ đáng thương cũng đã định hình trong bụng của Thị. Đứa trẻ đó là kết tinh tình yêu của Chí – Thị nhưng cũng chính là dấu hiệu của sự lặp lại bi kịch ở Chí Phèo vào mối tình của Thị Nở, Chí Phèo người đọc cảm thấy được cái gì đó rất đáng yêu nhưng cũng không kém phần cảm động. Hai người họ bị cả xã hội quay lưng nhưng cũng chính họ lại là những con người lương thiện, khát khao yêu thương văn mẫu 3Văn mẫu 11 cảm nhận về tình yêu của Chí Phèo và Thị NởKhông son phấn ngọc ngà, cũng chẳng giàu sang. Thậm chí, thị Nở còn có dung mạo khiến người nhìn khiếp sợ. Nam Cao đã dựng lên thị xấu tới mức ma chê quỷ hờn. Còn Chí Phèo cũng chẳng hơn gì khi chỉ là một thằng say rượu, trên mặt chằng chịt những vết rượu dài do rạch mặt ăn vạ. Nhưng tình yêu của hai con người ấy dành cho nhau lại vô cùng đáng quý. Họ đã bước vào trang văn của Nam Cao qua tác phẩm Chí Phèo với một tình yêu bất ngờ, say đắm và lẫn với tình người cao quý, thiêng ai có thể ngờ được rằng hai con người ấy lại có thể yêu nhau. Chí không cha không mẹ, cuộc đời và xã hội đưa đẩy biến Chí thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại suốt ngày chìm trong cơn say triền miên. Còn thị cũng ở dưới đáy của xã hội, không ai để ý tới vì thị vừa dở hơi lại vừa xấu xí. Ấy vậy mà trong đêm tối, hai con người ấy đã vô tình ngã vào nhau, gắn bó với nhau và rồi mang đến cho nhau những hương vị thực sự của tình yêu. Khi yêu người ta vẫn thường chỉ nhìn thấy những điều tốt đẹp của người yêu. Thị cũng vậy, dẫu trước khi gặp thị, Chí là kẻ côn đồ, là tay sai của Bá Kiến đi đâm thuê chém mướn để đòi nợ. Nhưng trong lúc này, bằng đôi mắt của tình yêu, thị lại thấy Chí rất hiền. Thị còn nấu cho Chí một bát cháo hành đầy tình nghĩa, giúp Chí hạ nhiệt cơn sốt và thoát khỏi vũng bùn lầy tăm tối mà Chí đang vùng vẫy trong của thị rất trong sáng, vừa có tình vừa có nghĩa. Có thể do thị dở hơi, không nhận thức được nhiều. Nhưng về phía Chí Phèo, rõ ràng Chí hiểu rằng thị chỉ là một người đàn bà dở hơi, xấu xí. Nhưng điều đó có quan trọng không khi trong lúc tuyệt vọng nhất, đau khổ nhất, chính người đàn bà dở hơi ấy đã đem lại ánh sáng cho cuộc đời Chí ? Không những là tình yêu mà còn là tình nghĩa, tình người, khiến Chí bừng tỉnh giữa những cơn say dài tăm tối. Chính tình yêu ấy đã kéo Chí quay trở lại với ước mơ giản dị đến thánh thiện ngày nào có một gia đình nho nhỏ, chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải thêu thùa. Cuộc sống thật bình dị nhưng ấm áp và yên vui. Cũng chính tình yêu của thị đã khiến Chí thêm yêu đời, yêu cuộc sống khi Chí cảm nhận được những điều bé nhỏ xung quanh mình tiếng chim hót líu lo, tiếng mái chèo gõ cá, tiếng người đi chợ nói chuyện lao xao. Những điều ấy ngày nào cũng có nhưng đến giờ Chí mới để ý. Chí không muốn uống rượu nữa. Chí muốn quay đầu lại làm lại từ đầu. Chí cũng hiểu rằng mình có thể làm được điều đó và chính thị sẽ là chiếc cầu nối cho ban đầu họ ngã vào nhau vì ham muốn của thể xác. Nhưng sau đó, họ lại bẽn lẽn, thẹn thùng và tình tứ nhìn nhau như đôi trai gái mới hẹn hò. Thị thấy thị như yêu hắn đó là lòng yêu của một người làm ơn. Nhưng cũng có cả lòng yêu của một người chịu ơn. Một người như thị Nở càng không quên được. Cho nên thị nghĩ mình bỏ hắn lúc này thì cũng bạc. Dẫu sao cũng đã ăn nằm với nhau ! Ăn nằm với nhau như vợ chồng. Tiếng vợ chồng thấy ngường ngượng mà thinh thích. Đó vẫn là điều mong muốn âm thầm của con người khốn nạn ấy chăng ? Hay là sự khoái lạc của xác thịt đã làm nổi dậy những tính tình mà thị chưa bao giờ biết đến ? Đến ngay cả chính tác giả cũng ngờ vực đặt ra câu hỏi đó là ham muốn của thể xác hay của tình yêu đích thực ? Nhưng ngay sau đó, lại diễn ra rất nhiều điều thay đổi trong con người Chí. Đó hoàn toàn không đơn thuần là sự ham muốn xác thịt, mà sâu thẳm là tình người, là tình yêu thực sự. Bởi nếu không yêu, không thương, thị đã bỏ mặc Chí và Chí cũng không nghĩ nhiều về cuộc đời như thế. Chí nghĩ đến tình người nhiều hơn là tình yêu. Chí ăn năn, lòng bâng khuâng và khát khao được trở lại cuộc sống yên bình ngày nào. Rồi Chí nghĩ đến tuổi già cô độc. Sự cô độc còn đáng sợ hơn cả bệnh tật. Không ai bên cạnh, không người sẻ chia...May mắn được gặp thị, thị dẫu dở hơi nhưng thị vẫn là người lương thiện. Thị khác hẳn với những kẻ tỉnh táo, khôn ngoan trong làng. Chỉ có mình Thị còn nhìn nhận Chí là người. Hoặc cũng có thể thị dở hơi nên không nhận ra Chí là con quỷ dữ. Nhưng rõ ràng ngay lúc này, trước mặt thị, Chí đâu có dữ dằn gì. Ngược lại, nụ cười của Chí còn làm khuấy động tâm hồn ngờ nghệch của người đàn bà ế chồng này. Người khác thấy Thị dở, Thị xấu. Nhưng Chí lại thấy Thị có duyên và đáng yêu vô cùng. Khi nhìn nhận mọi thứ bằng sự yêu thương chân thành, mọi thứ đều trở nên đáng quý và đáng trân trọng biết bao. Giá như thị đến với Chí sớm hơn, có lẽ Chí đã không lấn quá sâu vào con đường tội lỗi, và có lẽ trên khuôn mặt Chí cũng không có quá nhiều vết sẹo như thế. Nhưng cuộc đời mà, dẫu Nam Cao cũng thương Chí lắm, thương người nông dân lắm, nhưng ông không thể biến hóa sự thật một cách quá mức. Lòng đồng cảm của ông rất lớn lao nhưng ông vẫn phải để nguyên sự thật của xã hội đương thời nghiệt ngã. Ở đó, người nông dân bị kìm kẹp, bị đàn áp, bị bần cùng hóa tới mức đánh mất nhân tính, đánh mất tình yêu và những khát khao lương thiện tốt cũng vậy. Dù tình yêu của thị đã làm Chí đổi thay. Nhưng sự nghiệt ngã của lòng người, của người bà cô ế chồng của thị đã khiến thị quay lại cự tuyệt Chí. Chí lại rơi vào tuyệt vọng, khổ đau. Chí lại uống rượu để quên đi hết mọi chuyện. Nhưng lần này, Chí càng uống càng tỉnh. Và rồi Chí chọn cái chết để kết liễu cuộc đời mình, cũng là kết thúc một cuộc tình bi đát, đau thương. Có người nói, nếu Chí không yêu Thị, không gặp Thị, có lẽ Chí đã không chết thê thảm như vậy. Nhưng khi nhìn nhận ở góc độ thực tế của lòng nhân đạo, cái chết đối với Chí là điều nên làm. Bởi ta hiểu rằng, trong xã hội tàn ác, bất nhân ấy, nếu Chí còn sống, chắc chắn Chí sẽ lại là tay sai cho Bá Kiến, nối dài thêm cánh tay giết người cho hắn. Chí sẽ là nỗi ám ảnh khiếp sợ của dân làng Vũ Đại. Thà rằng lúc này Chí chết đi để được dừng lại những tội ác đó còn hơn tiếp tục sống trong tội lỗi, trong dày sao tình yêu của Chí Phèo và thị Nở cũng vẫn là một tình yêu rất đẹp. Tình yêu ấy không những là sự tình cờ, mà còn là tình người thiêng liêng, cao quý. Đến một người dở hơi như thị còn có tình có nghĩa, huống chi những người khác tỉnh táo, khôn ngoan ? Tình yêu trong xã hội hiện nay cũng vậy, ngoài yêu hãy biết thương, biết trân trọng nhau, biết cùng nhau cố gắng hướng đến những điều tốt đẹp. Nhà văn Nam Cao đã dựng lên một cuộc tình thật đẹp, thật ý nghĩa. Có thể người trong cuộc khiến người ta bật cười mỗi khi nhắc tới, nhưng chính tình yêu của họ lại là bài học sâu sắc cho mọi người giữa cuộc đời đầy mưu mô, tính toán. Rằng khi yêu hãy yêu thật lòng, hãy nghĩ đến những điều tốt đẹp, hãy bỏ qua cho nhau, cảm thông chia sẻ lẫn nhau. Như Chí không hề để ý đến tính tình dở hơi và "vẻ đẹp trời cho" của thị, hay chính thị cũng chẳng khinh ghét một người đàn ông không cha không mẹ, lại chuyên rạch mặt ăn vạ... Họ đã bù đắp cho nhau, làm nên một tình yêu thật đáng ngưỡng mộ. Dù sau đó cuộc tình tan vỡ nhưng đó là vì thời thế, vì xã hội. Vì thế, tình yêu ấy vẫn rất đáng trân trọng và ngợi khảo thêm Bài văn mẫu hay nói về giá trị nội dung và nghệ thuật trong Chí Phèo -Trên đây là top 3 bài văn mẫu cảm nhận về tình yêu của Chí Phèo và Thị Nở bao gồm cả bài văn đạt điểm cao mà Đọc tài liệu đã biên soạn để gửi đến các em tham khảo. Hy vọng sẽ giúp các em có thêm tài liệu để phát triển ý và viết được cho mình một bài văn hay. Chúc các em học tốt môn văn mẫu 11 Cảm nhận về hình tượng nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí phèo để thấy được dù bị đè nén, bị chà đạp khi sống trong cái xã hội đen tối thì cái tình người, sự cảm thông và tình yêu thuần khiết giữa con người với con người vẫn luôn tồn tại-Những bài văn mẫu hay cảm nhận về nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí PhèoBài văn mẫu 1Vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật Thị Nở“Chí Phèo“ là một trong những sáng tác sớm nhất của Nam Cao về đề tài làng quê Việt Nam và người nông dân. Các nhân vật trong tác phẩm của ông đều hướng về số phận bi đát của những người nghèo khổ, bị bần cùng hóa. Chí Phèo qua ngòi bút của Nam Cao hiện lên là một con quỷ dữ chứ không phải là con người nữa. Đã là quỷ thì làm gì có ai dám động chạm, làm gì có ai dám gần gũi nữa. Ấy vậy mà Thị Nở đã dám và làm được. Người phụ nữ bất hạnh, hiện ra với biết bao chuẩn mực của cái xấu ấy đã cảm hóa được con quỷ dữ của làng Vũ Đại, cảm hóa được những cơn say triền miên và kéo dài của hắn, chính thị đã khơi dậy lại bản tính lương thiện, hiền lành vốn có của người ta trước khi trở thành kẻ xấu thì ai cũng là người tốt, chỉ khi bị dồn ép vào nước đường cùng, không còn sự lựa chọn nào khác, con người ta mới thay đổi và trở nên độc ác hơn để chống chọi với thời cuộc mà thôi. Thị Nở đã làm được điều mà không ai dám chợt nghĩ đến chứ đừng nói là làm, có nên gọi thị là thiên thần? Vì chỉ có thiên thần mới cảm hóa được quỷ dữ mà thôi. Thị Nở – một nhân vật xuất hiện trong truyện của nhà văn Nam Cao, xuất hiện và mang lại biết bao cảm nhận riêng cho người đọc. Có người đọc sẽ thấu hiểu và thương xót, đau đớn thay cho thị nhưng cũng có những người cười nhạt và coi đó như một câu chuyện cười châm ngòi bút của Nam Cao, Thị Nở hiện lên như một chuẩn mực của cái xấu, “xấu như thị nở”, “nhìn xa cứ tưởng Thúy Kiều, nhìn gần mới biết người yêu chí phèo” – những câu nói truyền miệng được lưu truyền từ tác phẩm. Thị xấu ma chê quỷ hờn, mặt chiều ngang dài hơn chiều dọc, mũi to bành bạch, môi thịt trâu xám ngoách, răng vổ, mặt lỗ chỗ như tổ ong. Rồi thị còn là con của nhà có dòng giống mả hủi, quanh năm nghèo đói, bệnh tật. Giá mà thị minh mẫn, đầu óc có bình thường như người khác thì chắc thị cũng phát điên, phát rồ lên mới sống được. Một người phụ nữ đã xấu còn vô duyên như thị thì còn ai muốn kết bạn qua lại cho được. Nếu không bị dở hơi, ngớ ngẩn thì đúng là ông trời bất công với thị thật. Mà có khi vậy lại là một điều hay vì đã dở người thì người ta còn biết đến hay phân biệt được xấu đẹp là như thế nào đâu. Như nhau tất! Cũng may có được ân huệ ấy của ông trời ban chi mà thị sống vô tư, thoải mái, bất cần lo nghĩ sự đời. Vô tư đến nỗi vô duyên, vô dáng “ thị cởi áo ra ngồi tựa vào gốc chuối ’’, thị nghĩ “ về nhà thì cũng ngủ, ngủ ngay đây cũng vậy”. Đấy, người phụ nữ vô tư đến nỗi vô duyên, vì trước nay chưa ai phạm vào thị bao giờ nên thị vững tâm, thị yên tâm mà tựa vào gốc chuối tận hưởng ánh trăng dát vàng cùng gợn gió mát như quạt hầu mà ngủ, mà ngáy ngon làm những việc mà không ai dám làm, thị thích khác người hay là không biết sợ là gì? Vườn chuối là nơi bà con trong làng đi tắt qua sông gánh nước nhưng từ ngày Chí Phèo về ở thì dân làng đều tìm lối khác mà đi cả. Duy chỉ có thị là vẫn tiếp tục đi lối cũ, thị không thấy sợ như mọi người. Thị thấy đôi lúc Chí Phèo hiền đến lạ lùng. Tại sao chỉ có thị mới mới nhìn thấy phần hiền lành, lương thiện bên trong con người hắn, phải chăng chỉ có những người cùng cảnh ngộ mới thấu hiểu và đồng cảm cho nhau. Ai cũng tránh Chí Phèo như tránh quỷ dữ, không ai muốn gần thì làm sao có thể nhận ra bản chất của Chí được. “Thị cứ đi qua ngõ”, “trong lúc hắn ngủ thị còn vào cả nhà hắn để rọi nhờ lửa nữa”, “ có lần thị xin của hắn một tí rượu về bóp chân, hắn càu nhàu bảo thị ở xó nhà ấy, muốn rót bao nhiêu thì rót, để yên cho hắn ngủ”. Qua những lần tiếp xúc, thị thấy ngỡ ngàng rằng sao mọi người lại sợ hắn đến vậy?Thị đồng lòng cùng chia sẻ niềm vui thể xác với Chí, “ thị bỗng nhiên bật cười, vừa rủa vừa đập tay lên lưng hắn” rồi “ cái tay ấy lại dúi lung hắn xuống”. Thị cũng là đàn bà mà, thị cũng có những ham muốn cho riêng mình. Thị cũng ngại ngùng, e thẹn khi nhớ lại “ thị lên giường định đi ngủ. Nhưng thị nhớ lại việc lạ lùng tối qua. Thị cười, thị thấy không buồn ngủ và thị cứ lăn ra, lăn vào”. Những cảm xúc lần đầu tiên người đàn bà đó có được, chính những giây phút ấy thị đã đánh thức chấm dứt cơn say triền miên kéo dài trong cuộc đời chí Phèo. Thị làm cho Chí tỉnh táo mà nhìn thấy ánh sáng từ bên ngoài chiếu vào, làm Chí ngẩn người mà suy nghĩ rằng hắn đã già mà vẫn cô độc, lần đầu tiên hắn tỉnh táo mà ngẫm nghĩ về cuộc đời. Thị như người mở đường cho hắn quay về làm người lương thiện, thị có thể chung sống với hắn thì sao người khác lại không được?Người đàn bà vô duyên, vô dáng ấy đôi lúc lại làm được những chuyện tưởng chừng như không thể. Thị cũng muốn yêu, cũng muốn quan tâm, săn sóc cho nhân ngãi của mình như bao người phụ nữ khác. Khi con người ta vướng vào tình yêu thì tính thay đổi hẳn. “ Thị muốn gặp Chí Phèo, gặp hắn mà nhắc lại chuyện đêm qua thì chắc buồn cười lắm”, thị săn sóc, lo lắng cho Chí “ thị để hắn nằm lên và đi nhặt tất cả các manh chiếu rách đắp lên người hắn”. Thị cũng muốn làm một cô vợ đảm đang, vun vén “ dẫu sao thì cũng ăn nằm với nhau như vợ chồng rồi”. Thị nấu cháo hành cho nhân ngãi ăn giải cảm, thị đưa mắt nhìn trộm tình tứ, thị giục hắn ăn nhanh cho nóng. “ Thị phát khẽ hắn một cái, làm vẻ không ưa đùa, sao mà e lệ đến thế”, một người thật xấu khi yêu cũng khác, cũng e lệ, ngượng ngùng. Đáng ra những cảm xúc ấy thị xứng đáng được hưởng sớm hơn chứ không phải là lúc ngoài 30 tuổi này. Thị lấy làm bằng lòng lắm, bằng lòng vì thị làm cho hắn yêu thị, vì thị mà hắn cố uống thật ít rượu, vì thị mà hắn cố tỉnh táo để yêu. Những việc như này làm gì có ai làm lại được, thị làm cho một con quỷ dữ phải ngẩn ngơ, cảm kích mà rung rung chực khóc. Chưa một ai cho hắn thứ gì ngoài thị, thị cho hắn tình yêu, cho hắn sự quan tâm tình tứ, cho hắn bát cháo hành, cho hắn con đường về với người lương thiện. Thị như một ân nhân cứu giúp đời Chí. Đằng này thị dở người nên hành động cao cả của người đàn bà có duyên trong mắt Chí Phèo ấy nhanh chóng vụt tắt. Sống chung với nhau năm ngày, năm ngày đôi lứa hạnh phúc thì đến ngày thứ sáu thị chợt nhớ ra còn bà cô trên đời “ hãy dừng yêu để hỏi cô thị đã”, thi bỏ lại Chí Phèo một mình, thị tức lắm, thị bực mình lắm khi bị bà cô chửi, nhiếc những lí lẽ ngoa ngoắt. Thị trút hết bực dọc vào mặt hắn rồi ngoay ngoáy cái mông đít ra về. Đáng thương thay cho thị, thói đời chưa trót “ ngoài ba tuổi ai còn đi lấy chồng?”, xót xa khi cả đời không có được hạnh phúc trọn vẹn. Chỉ vì già, vì xấu, vì dở hơi mà không được phép hưởng hạnh phúc hay sao?Nhưng không, dẫu sao thị cũng có được những giây phút hạnh phúc của đời mình. Khép lại câu chuyện bằng hình ảnh mang lại nhiều suy nghĩ cho người đọc. Hình ảnh Thị Nở nhìn nhanh xuống bụng rồi thoáng hiện ra trong trí óc cái lò gạch cũ. Xã hội phong kiến lạc hậu đã làm thị thoáng nghĩ đã ngẩn ngơ “nói dại, nếu mình chửa, bây giờ hắn chết rồi, thì làm ăn thế nào”. Bằng nghệ thuật tạo dựng hình ảnh và sử dụng ngôn ngữ linh hoạt, khéo léo Nam Cao đã xây dựng lên nhân vật Thị Nở cùng với Chí Phèo cho xứng lứa vừa đôi. Một cặp đôi đã trở thành biểu tượng của nhân dân ta sau này, biểu tượng của đôi lứa xứng đôi ngồi cười hạnh phúc bên chén thể bạn quan tâm Bài văn phân tích hình ảnh bát cháo hành của Thị NởBài văn mẫu 2Cảm nhận của em về nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo lớp 11Chí Phèo là kiệt tác nghệ thuật của văn học Việt Nam hiện đại. Người ta nhớ đến Chí Phèo không chỉ vì sự đặc sắc về nội dung và nghệ thuật mà còn là bởi những nhân vật điển hình trong đó có thị Nở không phải là nhân vật trung tâm trong tác phẩm nhưng ở nhân vật này lại chứa đầy đủ quan niệm về người phụ nữ nói riêng, về con người nói chung của Nam Cao. Thị Nở là hiện thân của người phụ nữ trong văn chương Nam Cao dù số phận bất hạnh vẫn ánh lên vẻ đẹp của tâm hồn, một con người ẩn sau bề ngoài xấu xí là những phẩm chất đáng quý hồn nhiên, nhạy cảm, khao khát yêu đương, thương người và bao như nhân vật nữ trong các truyện thơ Nôm khuyết danh, hay như chị Dậu trong Tắt ĐènNgô Tất Tố thường có sự thống nhất giữa tính cách và ngoại hình thì phần nhiều nhân vật của Nam Cao lại ngược lại. Dường như, Nam Cao cố tình tạo nên sự trái ngược giữa hình thức bề ngoài và phẩm chất bên trong của nhân vật. Ở đây, chúng tôi muốn nói tới cái xấu, cái nghèo, dở hơi của thị Nở để nhấn mạnh tư tưởng của tác giả. Nam Cao không quan niệm đã là nhân vật chính diện thì tất cả đều phải đẹp, nhân vật phản diện thì phải xấu về ngoại hình. Khi miêu tả thị Nở xấu “ma chê quỷ hờn”… “má phinh phính thì mặt Thị còn hao hao mặt lợn…cái mũi vừa ngắn vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành…hai môi dày…màu thịt trâu xám ngoách…” Nam Cao muốn khẳng định dù họ xấu như thế nhưng tâm hồn họ đẹp. Ông trân trọng bênh vực họ, quan niệm của ông gần với mơ ước trong văn học dân gian ngoại hình xấu xí nhưng lại có những phẩm chất đáng trân giả Ngô Gia Võ trong bài viết của mình đã khẳng định “thị Nở là người nhân hậu, dịu hiền, nêu cao đạo lí cha ông, lại vừa thông minh tinh tế nhất làng Vũ Đại chính là bất ngờ nhất trong kiệt tác Chí Phèo mà hết truyện mới bộc lộ ra”. Nhưng chúng tôi lại nghĩ rằng những phẩm chất ấy được bộc lộ ngay từ khi thị Nở bắt đầu xuất hiện trong thiên Nở là người hồn nhiên “thông minh nhất làng Vũ Đại”. Khi cả làng tìm một lối đi xa hơn để không phải qua lều của Chí Phèo, Thị lại phân tích cặn kẽ Chí Phèo đi vắng suốt ngày, khi về thì hắn đã say lả còn gì mà sợ. “Chí Phèo ít khi có nhà, mà ở nhà thì hắn lại hiền lành, ai có thể ác trong khi ngủ. Hắn chỉ về nhà để ngủ”. Thị còn hồn nhiên vào nhà hắn xin rượu bóp chân và ngạc nhiên “sao người ta ghê hắn thế ?”. Thị Nở là cầu nối duy nhất để Chí Phèo nhích dần về phía con người. Con người ấy cần được thông cảm và chia chỉ “thông minh” mà thị Nở còn là người phụ nữ rất nhạy cảm với thiên nhiên. Đó là một nét đẹp trong sáng của tâm hồn con người. “Chiều hôm ấy, trăng lại sáng hơn mọi chiều trăng tỏa trên sông và sông gợn biết bao nhiêu gợn vàng. Gió lại mát như quạt hầu”. Thị Nở đã nhận ra vẻ thơ mộng và gợi cảm của thiên nhiên để rồi hồn nhiên ngủ lại bên bờ sông một cách dễ dàng. Như chúng ta đã biết “Nam Cao ít tả cảnh vì cảnh trước hết cũng để soi sáng nội tâm nhân vật”. Điều đó chứng tỏ tâm hồn thị Nở trong sáng và đẹp như thiên nhiên đêm trăng hôm ấy. Như thế ai bảo thị Nở là dở hơi, liệu có đúng không? Chính sự nhạy cảm với thiên nhiên đã đưa đến biến đổi trong cuộc đời thị con người ấy còn chứa đựng lòng thương người, Một trái tim phụ nữ biết khao khát yêu và muốn yêu mà bình thường người phụ nữ không dám nói ra. Trước hành động bất ngờ của Chí, thị ngạc nhiên, hốt hoảng kêu la, sau thì “thị Nở bỗng nhiên bật cười. Thị vừa rủa vừa đập lên lưng hắn nhưng đó là cái đập yêu, bởi đập xong cái tay ấy lại dúi lưng hắn xuống. Và chúng cười với nhau”. Đó là cái cười mãn nguyện. Sau khi được hưởng hương đời- niềm khát khao bình dị của con người, thị Nở như tinh tế hơn, dịu dàng và thật đáng yêu. Xây dựng mối tình Chí Phèo- thị Nở- hai con người bên lề xã hội bắt đầu bằng một đêm chung đụng xác thịt, đó là thử thách của nhà văn. Nam Cao đã thật tinh tế khi xây dựng nên một khung cảnh thiên nhiên thơ mộng, gợi cảm “khắp bãi trồng toàn dâu, gió đưa đẩy những thân mềm oặt ẹo, cuộn theo nhau thành làn…và những tàu chuối nằm ngửa, ưỡn cong cong lên hứng lấy trăng thanh rời rợi như là ướt nước, thỉnh thoảng bị gió lay lại giẫm lên đành đạch như là hứng tình”. Thiên nhiên đã đập theo nhịp đập của trái tim trai gái một cuộc tình đẹp đẽ và thật thanh thản. “Bây giờ chúng ngủ bên nhau…Chúng ngủ như chưa bao giờ được ngủ…” Giấc ngủ ấy sẽ là một mốc lớn đánh dấu một giai đoạn những con người sống khổ cực giờ đây sẽ có một cuộc sống hạnh phúc với những tấm lòng khao khát yêu thương. Sau đêm ấy Chí Phèo đã tỉnh ngộ, đã từ bỏ những cơn say triền miên để trở lại làm người. Chí Phèo đã nhận ra cuộc sống xung quanh. “Tiếng chim hót ngoài bãi vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ…” và “chao ôi hắn buồn”. Hắn buồn vì bấy lâu nay con người hắn bị xã hội chôn vùi. Hắn nhớ lại “Hình như một thời hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê…” “Tỉnh dậy hắn thấy hắn già mà vẫn cô độc”. Chính tình yêu của thị Nở đã giúp Chí Phèo trở lại làm như đêm hôm ấy chỉ giúp Chí nhận ra mình “già nua vẫn cô độc”, nhận ra mình còn là người thì chính bát cháo hành của Thị Nở- biểu hiện của tình thương đã giúp Chí lại muốn sống, hắn nghĩ về tương lai. Nếu như không có bát cháo và tình cảm chăm sóc ấy mà hắn mới muốn trở lại làm người, một con người chân chính. Câu nói ngô nghê nhưng thật thà của Chí “Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ?” Hay “mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui”- đó là khát khao muốn lương thiện, Chí muốn làm lại từ đầu, muốn chuộc lỗi lầm tội ác của mình và “thị Nở sẽ mở đường cho hắn”. Thị Nở chăm sóc hắn như tình thương của mẹ dành cho con. Từ khi nhận được sự chăm sóc của thị Nở Chí thấy “lòng mình thành trẻ con. Hắn muốn làm nũng thị như mẹ” “mắt hình như ươn ướt”, thị giục hắn ăn cháo “Trời ơi cháo mới thơm làm sao…Sao đến bây giờ hắn mới nếm mùi vị cháo”. Hắn như nâng niu, dè sẻn những giây phút quý hóa bên Thị. Hắn thực sự xúc động bởi từ trước đến giới không ai cho không hắn cái gì, tất cả đều có từ dọa nạt, cướp giật…Những biểu hiện khát khao cuộc sống của Chí là minh chứng cho tình yêu thương và nét đẹp cảm háo ở thị Nở. Cái chết của Chí không phải do thị Nở vô tâm mà chính bởi chế độ phong kiến “mà một biểu hiện là bà cô thị Nở” đã ngăn cản họ đến với nhau. Thị Nở vô Thị Nở còn một phẩm chất đẹp nữa là lòng bao dung. Sau khi yêu nhau được năm ngày, thị tỉnh táo nhận ra mình phải báo cáo với bà cô. Thị Nở biết nghĩ trước sau, thị biết việc trọng đại của một đời người nên phải báo cáo với người lớn. Nhưng thật bất hạnh là bà cô của thị không đồng ý. Chính việc này đã đẩy Chí Phèo đến đường cùng giết Bá Kiến và kết liễu luôn đời mình. Trước cái chết của hai người ấy “Cả làng Vũ Đại nhao lên. Họ bàn tán rất nhiều về vụ án bất ngờ ấy”. Đa số mọi người đều tỏ ra hài lòng, mỗi người một lời bình. Đội Tảo thì thích ra mặt vì từ bây giờ không bị Bá Kiến ức hiếp. Bọn đàn em lấy làm mừng “Thằng mọi già ấy chết anh em mình nên ăn mừng”. Thị Nở lại là người duy nhất ở làng Vũ Đại chứng kiến cảnh ấy mà không vui mừng trước cái chết của hai người. Và khi bà cô nói với giọng chì chiết “Phúc đời nhà mày con nhé. Chả ôm lấy ông Chí Phèo”, thị Nở đã đủ thông minh để lảng sang chuyện khác và trong lời nói đó còn chứa đựng lòng thương người, sự bao dung. Chỉ mỗi thị Nở thương cho Lí Cường- Bá Kiến “thiệt người hại của”. Trước cái chết của Chí thị không khóc vô nghĩa, không trách cứ Chí Phèo bỏ mình thị với đứa con trong bụng, cái gì đã mất làm sao lấy lại được. Thị Nở nhớ lại những kỉ niệm ngày xưa và bằng linh tính của người phụ nữ thị nhìn nhanh xuống bụng, chuẩn bị tình huống xấu để sẵn sàng vượt qua. Thị không hối hận vì đã ăn ở với Chí Phèo mà thị còn tiếc” quãng thời gian ấy. Hóa ra thị Nở không đáng chê, đáng cười như người ta vẫn nghĩ mà ở thị Nở, những người phụ nữ có thể học hỏi rất nhiều điều để để hoàn thiện mình. Hóa ra ẩn sau một hình dáng xấu xí ấy thị Nở mang trong mình bao phẩm chất tốt đẹp tiêu biểu cho người phụ nữ Việt thể nói qua tác phẩm Chí phèo, Nam Cao đã xây dựng một hình tượng người phụ nữ khá tiêu biểu. Thông qua hình tượng này tác giả muốn ngợi ca phẩm chất tốt đẹp cuả người phụ nữ. Hình tượng thị Nở trong kiệt tác Chí Phèo của Nam Cao sẽ còn sống mãi với chúng ta như một minh chứng cho tài năng của tác khảo thêm Ý nghĩa chi tiết bát cháo hành của Thị NởBài văn mẫu 3Bài văn cảm nhận về nhân vật Thị Nở được đánh giá caoKhông biết sau này, truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao có trụ vững được trước sự sàng lọc nghiệt ngã của thời gian không nhưng hiện tại, tác phẩm này vẫn được coi là kiệt tác. Từ khi được đưa vào nhà trường phổ thông đến nay, vị trí của tác phẩm trong văn học hiện đại đã được khẳng định trên rất nhiều phương diện. Từ góc nhìn văn hóa, tác phẩm không chỉ hé mở tiếp những giá trị đặc sắc mà theo tôi, còn có thể giải đáp được phần nào vai trò và ý nghĩa của nhân vật Thị Nở - một kiểu nhân vật ngẩn ngơ, xấu xí quen thuộc trong văn Nam Nở chắc chắn là sự tái sinh của một kiểu nhân vật cổ tích. Để khẳng định điều này có cơ sở trước hết cần điểm lại một đặc điểm của nhân vật cổ tích. Đó là sự phân cực đến tuyệt đối. Phần lớn các nhân vật cổ tích nếu đã ác thì ác đến không còn tính người, đã nghèo thì tài sản duy nhất chỉ là manh khố, đã thật thà thì hết lần này đến lần khác đều bị lừa, đã xấu thì xấu đến độ dị dạng, … Nghĩa là điểm nào cũng được thể hiện ở mức tận cùng. Nam Cao tuy ảnh hưởng của Tây học nhưng cái nền tảng đầu tiên tạo nên “con người văn hóa” trong nhà văn vẫn là môi trường của nông thôn Việt Nam xưa với những tích chèo, những câu chuyện cổ,… đi vào tâm thức văn hóa dân tộc từ hàng ngàn đời nay. Hẳn không lạ gì với kiểu nhân vật như Quadimodo của V. Hugo nhưng cái nguồn văn hóa chủ yếu chi phối nhà văn xây dựng nhân vật Thị Nở phải là dấu ấn của các câu chuyện cổ tích. Chính nhà văn đã ví Thị Nở là “một người ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích và xấu ma chê quỷ hờn”. Thị Nở chính là sự tái sinh của nhân vật người mang lốt trong cổ tích. Đó là một kiểu của nhân vật phù trợ. Những nhân vật này thường mang lốt cóc, lốt sọ dừa, lốt rắn, hoặc những người xấu xí, dị dạng,… Và thường thử thách phẩm chất của các nhân vật khác để trừng phạt kẻ ác, cứu vớt người lương thiện. Thị Nở cũng vậy, mang bề ngoài xấu xí, đần độn nhưng chính Thị Nở lại cứu vớt lương tri của Chí phèo. Trong truyện Sọ Dừa, cả hai người chị nhà phú ông xa lánh chàng trai mang lốt sọ còn cô út nhân hậu thì chấp nhận lấy chàng và được hạnh phúc. Trong Chí Phèo, cả làng Vũ Đại tránh Thị Nở “như tránh con vật lạ” song Chí Phèo bất ngờ “tiếp cận” được với Thị, thế là nhân tính được cứu rỗi Điều này sẽ được trình bày rõ hơn ở phần sau. Nhưng khác với cổ tích, cô út nhà phú ông dù có gặp tai biến cuối cùng vẫn đoàn viên còn ở Chí Phèo, Thị Nở chỉ có thể cứu được nhân tính chứ không thể cứu được số phận của Chí. Ở một khía cạnh khác, khi miêu tả Thị Nở “ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích” thì nhân vật này cũng là tái sinh của kiểu nhân vật ngốc thuộc lớp người “thấp cổ bé họng”. Và nếu trong cổ tích, nhân vật ngốc dù bị lừa gạt thì vẫn được lực lượng thần kỳ che chở, cuối cùng vẫn được giàu có hoặc lấy được công chúa,… nhưng trong Chí Phèo, Thị Nở là nhân vật bị cô lập, bị bỏ rơi bởi định kiến xã hội. Mặc dù kết thúc tác phẩm chưa phải là kết thúc số phận của Thị Nở nhưng người đọc vẫn hình dung được kết cục của nhân vật trong hoàn cảnh xã hội còn đầy những định kiến hà khắc về người phụ nữ “không chồng mà chửa”. Như vậy, là tái sinh của nhân vật phù trợ “người mang lốt”, Thị Nở không cứu vớt được số phận của Chí Phèo, là tái sinh của nhân vật “thấp cổ bé họng”, Thị Nở không được ai che chở, bênh vực. Nếu cổ tích là “những giấc mơ đẹp” thì đến Nam Cao, giấc mơ ấy bị đổ bể. Hiểu như vậy thì tác phẩm hiện thực phê phán này không chỉ là sự đổ vỡ của “lí tưởng lãng mạn” như bản chất của Chủ nghĩa hiện thực nói chung mà còn là sự đổ vỡ của những giấc mơ đẹp có từ cổ tích. Đó là sự thức tỉnh để nhìn rõ vào bản chất của hiện thực xã hội. Ở thời cổ tích, con người dù chịu bất công vẫn có thể vin vào triết lí “ở hiền gặp lành” làm đức tin còn trong tác phẩm này thông điệp mà Nam Cao muốn chuyển tải là sự cảnh báo về một thời kỳ con người không biết tin vào đâu để sống. Nếu như cách lí giải về nhân vật Thị Nở theo hướng này có lí thì liệu cái lí ấy có liên quan gì đến tư tưởng nghệ thuật và phương thức phản ánh hiện thực của Nam Cao, cái lí ấy liệu có liên quan gì đến những suy tư của nhà văn về con người, xã hội đương thời?Xung quanh nhân vật Thị Nở, tác phẩm còn tạo nên một lối kết cấu riêng kết cấu đối xứng. Nếu Thị Nở là sự tái sinh của nhân vật cổ tích thì kết cấu đối xứng là sự tái sinh của một kiểu tư duy có tính bác học thời trung đại - tư duy quan hệ. Lối tư duy này dựa trên nền tảng là triết học m dương. Đó là cách dùng mặt nọ nói mặt kia trên cơ sở hai mặt đối lập. Chẳng hạn, dùng ánh sáng nói bóng tối hoặc dùng mộng nói thực,... Đành rằng đây không phải là phương thức tư duy của riêng phương Đông nhưng chỉ ở phương Đông, tư duy quan hệ mới được ý thức một cách sâu sắc, triệt để. Trên nền tảng lối tư duy ấy, tác giả dựng lên những cặp nhân vật, sự kiện đối xứng để làm nổi bật nhau như Chí phèo - Thị Nở, Chí Phèo - Tự Lãng, Chí Phèo - Bá Kiến, hoặc như hai câu nói của Chí ở cuối tác phẩm “tao muốn làm người lương thiện” - “ai cho tao lương thiện?” … Đó là những cặp đối xứng dễ thấy và dễ nhận ra tác dụng nhất. Xung quanh nhân vật Thị Nở, tư duy quan hệ còn tạo ra sự đối xứng ở mức độ sâu sắc đối xứng thứ nhất là mối quan hệ giữa hai người đàn bà đi qua cuộc đời Chí Phèo Thị Nở và bà ba Bà Kiến. Đây không phải là sự suy diễn vì không phải ngẫu nhiên mà tác giả để cho Chí Phèo hồi tưởng lại những ký ức về bà ba khi sống bên Thị Nở. Cả hai người đàn bà này đều tạo nên những bước ngoặt lớn trong cuộc đời Chí phèo. Nếu bà ba xinh đẹp thì Thị Nở lại là “con vật lạ”, là một sự “mỉa mai của hóa công”. Bà ba lẳng lơ một cách ranh mãnh còn Thị Nở thì vô tâm “ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích”, đến mức không biết thế nào là lẳng lơ, là xấu. Bà ba chủ động tìm cách “tiếp cận” Chí Phèo còn Thị Nở lúc đầu hoàn toàn bị động trong cuộc gặp gỡ với Chí. Cùng phát khởi từ vấn đề tính dục nhưng sự “ưu ái” của bà ba dành cho Chí chỉ để thỏa mãn nhục dục còn sự chăm chút của Thị Nở là hoàn toàn tự nguyện. Với bà ba, Chí tuy “không phải là đá” nhưng chỉ cảm thấy nhục vì phải phục dịch còn khi được Thị Nở chăm chút, Chí chỉ mong “giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ”. Việc buộc phải quan hệ với bà ba, Chí Phèo trở thành cái gai trong mắt Bá Kiến và đó chính là nguyên nhân trực tiếp đầu tiên để Chí trở thành con quỷ dữ sau này. Sự kiện gặp gỡ với Thị Nở lại là nguyên nhân quan trọng để Chí Phèo dần thức tỉnh ý thức làm người. Mặc dù không hề có một so sánh trực tiếp nào ví Thị Nở như một “thiên thần mang lốt kẻ dị dạng” nhưng tư duy quan hệ vẫn cho phép người đọc hiểu dụng ý của Nam Cao. Khi đã ví bà ba như “con quỷ cái”, người đọc có quyền hiểu rằng hình tượng đối lập với “yêu quỷ” phải là “thiên thần”. Nếu không phải với chức năng ấy, Thị Nở làm sao có thể cứu rỗi linh hồn của Chí một cách kì diệu đến thế. Chỉ khi liên tưởng đến Thị Nở trong chức năng của thiên thần cứu rỗi mà không cứu vớt được số phận của Chí Phèo, ta mới cảm thấy thấm thía những suy tư của Nam Cao về thân phận, số phận con người trong một thời đại “không còn chúa” - thời đại mà triết lí “ở hiền gặp lành” thành ra viển vông. Viển vông vì ở cái làng Vũ Đại này càng hiền càng bị đè nén đến “không ngóc đầu dậy được”.Cặp đối xứng thứ hai là mối quan hệ giữa hai bữa ăn mà Chí được “chiêu đãi”. Một bữa ăn do Bá Kiến mời và một bữa ăn do Thị Nở nấu cho. Đây cũng là hai dấu ấn quan trọng với ăn nhà Bá Kiến là sự kiện xảy ra khi Chí Phèo vừa ở tù về. Tuy đã biến thành tên lưu manh tha hóa nhưng Chí vẫn nhớ mối thù vì bị đẩy vào tù. Chí uống rượu và đến gây gổ nhà Bá Kiến, xô xát với Lí Cường. Hành động ấy tuy có khiến dân làng hả hê đôi chút vì cái gia đình cụ bá thường ngày xem người như rác mà nay bị một thằng “cùng hơn cả dân cùng” đến mạt sát. Nhưng Bá Kiến đã xuất hiện kịp thời, đuổi khéo dân làng tản đi để Chí bị cô lập và lại “trịnh trọng” mời Chí Phèo vào nhà. Chí Phèo sau một thoáng lo sợ hão đã cảm thấy hả hê vì cái lão Bá “thét ra lửa” kia không chỉ hạ mình thành ngang hàng với Chí mà còn “cung kính” thết đãi cơm rượu. Bữa ăn ấy có đầy đủ rượu thịt, lại được mời mọc bằng những lời ngon ngọt mà thực chất là một thứ “độc dược” để đầu độc linh hồn của Chí Phèo. Gọi là “độc dược” là hợp lí bởi làng Vũ Đại vốn chỉ toàn gắn với những ký ức buồn của Chí. Sau bảy, tám năm ở tù, Chí trở về làng chắc không phải vì người thân, cũng chẳng phải vì mảnh ruộng hay túp lều nào cả bởi Chí vốn không cha mẹ, không họ hàng thân thích, không tấc đất cắm dùi. Một cảnh ngộ như thế lại mang tiếng là từng có một án tù, nếu chẳng còn gì vương vấn chắc Chí sẽ đi biệt tích như cô Đào trong truyện ngắn Mùa lạc của Nguyễn Khải. Chí về làng chỉ với mục đích duy nhất là trả thù. “Hắn về hôm trước hôm sau đã thấy ngồi ở chợ uống rượu với thịt chó suốt từ trưa cho đến xế chiều” rồi “ngật ngưỡng” đến nhà Bá Kiến. Điều đó chứng tỏ, bảy, tám năm qua, Chí đã từng nung nấu mối thù với lão Bá. Thế mà chỉ bằng một bữa ăn với vài lời ngon ngọt, Chí đã bị đầu độc đến mức không chỉ quên đi mối thù mà còn trở thành tay chân của ăn được Thị Nở “thết đãi” là sự kiện diễn ra sau đêm “đôi lứa xứng đôi” bất ngờ gặp nhau. Nếu Bá Kiến thết đãi Chí Phèo với động cơ nham hiểm là thu phục và lợi dụng thì Thị Nở chăm chút Chí phèo bằng một tình cảm yêu thương hồn nhiên, vô tư. Nếu bữa ăn nhà Bá Kiến có đủ rượu thịt thì bữa ăn của Thị Nở chỉ vẻn vẹn một nồi cháo hành. Sau bữa ăn nhà Bá Kiến, Chí Phèo lại được thêm tiền và hả hê ra về còn sau bữa ăn của Thị Nở, Chí vừa có cảm giác cay đắng khi nghĩ lại đời mình lại vừa có nỗi khát thèm hạnh phúc đời thường. Và điều quan trọng nhất, nếu bữa ăn nhà Bá Kiến là thứ “độc dược” nhằm hoàn tất công việc của nhà tù thực dân, đầu độc nhân tính của Chí Phèo thì bát cháo hành của Thị Nở lại là thứ “linh dược” làm hồi sinh nhân tính trong Chí. Sau bữa ăn nhà Bá Kiến, Chí bắt đầu những chuỗi ngày đâm thuê, chém mướn, rạch mặt ăn vạ, “triền miên trong những cơn say”. Sau khi ăn cháo hành, cái sức mạnh quỷ dữ bị gạt bỏ, bị tiêu trừ dần, khiến Chí cảm thấy yếu đuối, sợ ốm đau, tuổi già và sự cô độc, nhất là sự cô độc, “cái này còn đáng sợ hơn đói rét, ốm đau”.Hai cặp đối xứng vừa kể trên có tác dụng đặc biệt trong dụng ý đặt ra vấn đề quen thuộc ở các sáng tác của Nam Cao - vấn đề “đôi mắt”. Nghĩa là nhà văn cho rằng muốn nhìn cuộc sống một cách đúng đắn thì phải “cảnh giác” với những biểu hiện bên ngoài. Nếu chỉ nhìn bề ngoài, ta sẽ chỉ thấy bà ba xinh đẹp, Thị Nở xấu xí, chỉ thấy bữa ăn nhà Bá kiến đầy đủ rượu thịt còn bát cháo hành xoàng xĩnh. Nhưng trong thực tế, cái giá trị nhân văn đích thực của cuộc sống nhiều khi lại núp sau cái vẻ ngoài xấu xí, xoàng xĩnh. Đó là một trong những ý nghĩa triết lí sâu sắc của tác phẩm, là tiếng nói thường đau đáu trong văn Nam đến những tác động của hoàn cảnh đến tâm tính của Chí Phèo, có thể kể đến sự đối xứng giữa Thị Nở và nhà tù thực dân. Nếu nhà tù thực dân tiếp tay cho Bá Kiến biến một người lương thiện thành một kẻ lưu manh, tha hóa thì Thị Nở lại biến con quỷ dữ của làng Vũ Đại trở lại làm một con người. Nhà tù tác động đến Chí Phèo một cách có chủ ý còn Thị Nở lại vô tình. Vô tình vì Thị Nở cùng lắm chỉ biết rằng mình vừa cứu sống một con người khỏi chết vì bị cảm chứ đâu có ý thức về sự cứu rỗi. Vô tình vậy mà sức tác động đến Chí Phèo lại vô cùng bất ngờ. Chí Phèo trở lại ý thức người đột ngột đến mức mà bộ óc Tào Tháo của Bá Kiến cũng không ngờ tới. Nội dung nhân đạo toát ra từ cặp đối xứng này chính là sự đề cao sức mạnh của tình người. Tình người có sức mạnh hơn bất cứ thứ bạo lực nhà tù nào. Để nhào nặn nên con quỷ dữ Chí Phèo, nhà tù thực dân phải mất bảy, tám năm trời nhưng để biến Chí thành một con người Thị Nở chỉ cần có vài ngày ngắn nay, tác phẩm của Nam cao thường được nhìn nhận trong những ảnh hưởng phức tạp của các trào lưu văn học lớn từ phương Tây, thậm chí kể cả Chủ nghĩa tự nhiên. Đó là điều không ai có quyền nghi ngờ nhưng ở mỗi nhà văn lớn thường có sự kế thừa những tinh hoa truyền thống kết hợp với hiện đại. Nếu nhìn từ truyền thống, từ góc độ văn hóa, có thể tầm vóc của nhà văn sẽ được tôn vinh thêm rất nhiều? Với ý tưởng ấy, bài viết này đã mạnh dạn nêu lên vài suy nghĩ xung quanh nhân vật Thị đây là những bài văn mẫu cảm nhận về nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo mà Đọc tài liệu đã biên soạn. Còn rất nhiều những bài văn mẫu hay khác thuộc tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao, các bạn chỉ cần truy cập vào trang là thấy ngay nhé. Chúc các em học tốt môn văn mẫu 11

cảm nhận về thị nở